A. YÊU CẦU
1. HS hiểu được sự khủng khiếp của nạn đói ở nước ta năm 1945 do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra.
2. Cảm nhận được niềm khao khát mãnh liệt của người dân lao động về hạnh phúc gia đình và niềm tin bất diệt vào sự sống và tương lai.
3. Hiểu được sự sáng tạo xuất sắc và độc đáo về nghệ thuật truyện, tình huống truyện, miêu tả tâm lí, dựng đối thoại.
B. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Về nhà văn Kim Lân
– Kim Lân tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920 ở Tiên Sơn, Bắc Ninh. Hoàn cảnh gia đình khó khăn nên ông chỉ học đến bậc Tiểu học rồi phải đi làm. Kim Lân bắt đầu viết văn năm 21 tuổi. Năm 1944, ông tham gia hội văn hoá cứu quốc. Kim Lân đã được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001.
– Sáng tác của Kim Lân chủ yếu ở thể loại truyện ngắn. Tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng (1955), Con chó xấu xí (1962).
– Kim Lân để lại nhiều trang viết đặc sắc về sinh hoạt văn hoá phong phú ở thôn quê (như: đánh vật, chọi gà, thả chim, chơi núi non bộ…). Ông thể hiện sâu sắc số phận và tâm lí của những người nông dân nghèo – những con người lam lũ nhưng nghĩa tình, lạc quan, gắn bó tha thiết với quê hương, cách mạng.
2. Tiền thân của truyện ngắn Vợ nhặt là tiểu thuyết Xóm ngụ cư, được Kim Lân viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng chưa hoàn thành và bị thất lạc. Năm 1954, Kim Lân đã dựa vào cốt truyện cũ để viết Vợ nhặt.
Vợ nhặt đã phản ánh bức tranh hiện thực chân xác về tình cảnh bi thảm của người lao động trong nạn đói 1945.
Từ bức tranh hiện thực tăm tối, tác phẩm có ý nghĩa là bản cáo trạng về tội ác của bọn thực dân, phát xít và tay sai nhong kiến đã đẩy nhân dân lao động vào bờ vực-thẳm của chết chóc. Tác phẩm còn là bài ca về sự bất diệt của sự sống, ca ngợi những vẻ đẹp của người lao động ngay trong cảnh cùng quẫn nhất – đó là lòng nhân ái, lạc quan yêu đời một cách hồn nhiên, niềm khát khao hạnh phúc của những người ngay trước cái chết mà vẫn luôn nghĩ về sự sống, vẫn không ngừng tìm kiếm hạnh phúc.
Kim Lân đã tạo dựng được một tình huống truyện độc đáo. Đó là tình huống Tràng- một người đàn ông vừa nghèo, vừa xấu trai, lại hơi gàn, lúc bình thường đã không lấy được vợ, thế mà giữa lúc cả thiên hạ đang trong nạn đói, không biết lấy gì ăn để sống qua ngày, thì anh ta lại “lấy vợ”.
Tình huống éo le trên đã mờ đầu cho sự diễn biến tâm trạng và hành động của các nhân vật trong tác phẩm, nhất là tâm trạng bà cụ Tứ- mẹ Tràng: bà vừa ngạc nhiên, vừa xót thương; mừng, tủi, lo, và hi vọng…
Đặc sắc nghệ thuật của truyện còn là ở cách dựng truyện tự nhiên, đơn giản nhưng chặt chẽ. Giọng văn mộc mạc giản dị, gần với đời sống hằng ngày.
C. HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI CÂU HỎI
1. Dựa vào mạch truyện, hãy cho biết có thể chia tác phẩm thành mấy đoạn? Ý chính của mỗi đoạn? Mạch truyện đã được dẫn dắt như thế nào?
Gợi ý:
a- Tác phẩm có thể được chia thành đoạn:
+ Đoạn 1: từ đầu đến “tự đắc với mình” (Tràng cùng người đàn bà về làng, tâm trạng tự đắc phớn phờ của Tràng và sự ngạc nhiên hài hước của xóm ngụ cư).
+ Đoạn 2: tiếp đến “rồi cùng đẩy xe bò về” (Kể lại chuyện làm quen và “nhặt” được vợ của Tràng. Người đàn bà vì đỏi khát đã quên sĩ diện mà theo Tràng).
+ Đoạn 3: tiếp đến “len vào tâm trí mọi người” (Cảnh sống trong gia đình Tràng sau khi Tràng có vợ: tâm trạng vừa mừng, vừa tủi, vừa lo của bà cụ Tứ; hành động, lời nói của bà nhằm động viên các con và động viên chính mình, nhưng vẫn không lấp được nỗi lo âu khôn xiết; hạnh phúc vợ chồng Tràng diễn ra trong cảnh cháo cám chát đắng và tiếng khóc hờ của những nhà hàng xóm có người chết đói…)
+ Đoạn 4: từ “Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống’’ đến hết (Kết thúc thiên truyện: cảnh thúc thuế trong làng và ý tưởng đi theo Việt Minh của nhân vật Tràng).
b. Mạch truyện đã được dẫn dắt một cách tự nhiên, hợp lô gíc và gần với truyện truyền thống (chủ yếu theo thời gian tuyến tính). Tuy nhiên, sự hấp dẫn nằm trong nghịch lí mang tính hài hước của chuyện kể: giữa ngày đói kém, một anh cu Tràng “quá lứa”, “dở hơi” đưa một người đàn bà “rẻ rúng” về làm vợ. Mạch truyện bắt đầu từ đó: sự kiện khôi hài này tất yếu gây ra những lời bàn tán hài hước và xót xa; rồi màn bi- hài kịch diễn ra trong nhà bà Cụ Tứ. Cuối cùng, tác giả đã tìm được lối thoát cho truyện: giữa những âm thanh của tiếng trống thúc thuế, dồn người ta đến bước đường cùng, hình ảnh lá cờ Việt Minh và đoàn người phá kho thóc của Nhật trong câu chuyện mơ hồ và xa xôi (nghe đâu tận Thái Nguyên, Bắc Giang) xuất hiện và ám ảnh trong đầu óc của Tràng.
2- Vì sao người dân xóm ngụ cư lại ngạc nhiên khi thấy Tràng đi cùng một người đàn bà lạ về nhà? Sự ngạc nhiên của các nhân vật trong truyện cho thấy nhà văn đã sáng tạo được tình huống truyện như thế nào? Tình huống đó có những tác dụng gì đối với nội dung, ý nghĩa của thiên truyện?
Gợi ý
a- Người dân xóm ngụ cư và các nhân vật khác trong truyện như bà cụ Tứ, và cả bản thân Tràng đều đã ngạc nhiên vì Tràng có vợ giữa cảnh nạn đói đang đe dọa.
Tràng là một người cỏ ngoại hình xấu, lời ăn tiếng nói cũng cộc cằn, thô kệch. Gia cảnh của Tràng nghèo khổ, lại là dân xóm ngụ cư (không có ruộng đất). Nguy cơ “ế vợ” đã rõ. Gặp nạn đói khủng khiếp, cái chết đang đeo bám, mọi người đều nghĩ đến việc lấy gì ăn để sống qua ngày, thì đột nhiên Tràng lại lấy vợ. Trong cảnh đói, Tràng “nhặt” được vợ là “nhặt” thêm một miệng ăn, cũng đồng thời là nhặt thêm tai họa cho mình. Vì vậy, việc Tràng có vợ là một nghịch cảnh éo le, vui buồn lẫn lộn, cười ra nước mắt.
Dân xóm ngụ cư ngạc nhiên, cùng bàn tán, phán đoán rồi cùng nghĩ: “biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”, cùng nín lặng.
+ Bà cụ Tứ, mẹ Tràng, lại càng ngạc nhiên hơn. Bà lão chẳng hiểu gì, rồi “cúi đầu nín lặng” với nỗi lo riêng mà rất chung: “Biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”
+ Bản thân Tràng cũng bất ngờ với chính hạnh phúc của mình: “Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ”. Thậm chí sáng hôm sau Tràng vẫn chưa hết bàng hoàng.
b. Sự ngạc nhiên đó cho thấy tác giả đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo. Tình huống truyện mà Kim Lân xây dựng vừa bát ngờ, vừa nghịch lí nhưng lại cũng vừa có lí.
c. Qua tình huống đó, tác phẩm thể hiện rõ giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo và giá trị nghệ thuật.
– Giá trị hiện thực: Tố cáo tội ác thực dân, phát xít qua bức tranh xám xịt về thảm cảnh chết đói.
Nhặt vợ là nhặt được hạnh phúc, nhưng khi nó đã không còn là hạnh phúc nữa mà trở thành cái khốn cùng của cuộc sống.
Cái đói quay quắt dồn đuổi đến mức người đàn bà chủ động gợi ý đòi ăn. Chỉ vì đói quá mà người đàn bà tội nghiệp này ăn luôn và “ăn liền một chặp 4 bát bánh đúc”. Chỉ cần vài lời nửa đùa nửa thật thị đã chấp nhận theo không Tràng. Giá trị con người bị phủ nhận khi chỉ vì cùng đường đói khát mà phải trở nên trơ trẽn, liều lĩnh, bất chấp cả e thẹn. Cái đói đã bóp méo cả nhân cách con người.
– Giá trị nhân đạo: Tình nhân ái, cưu mang đùm bọc nhau, khát vọng hướng tới sự sống và hạnh phúc.
Điều mà Kim Lân muốn nói là: trong bối cảnh bi thảm, giá trị nhân bản không mất đi, con người vẫn cứ vươn lên để tiếp tục sự sống, để sinh con đẻ cái, để hướng đến tương lai. Người đàn bà đi theo Tràng đã chạy trốn cái đói, cái chết để hướng đến sự sống. Bà cụ Tứ, một bà lão nhưng lại luôn nói đến chuyện tương lai, chuyện sung sướng về sau, nhen lên niềm hị vọng cho con. Đặc biệt là nhân vật Tràng, giữa cảnh chết đói, anh ta vẫn lấy vợ, vẫn nghĩ đến tương lai và hạnh phú. Đúng như tác giả đã nói, đại ý: những người nghèo khổ, ngay bên cạnh cái chết, họ vẫn không ngừng tìm kiếm hạnh phúc.
Về nghệ thuật: Tình huống độc đáo khiến truyện phát triển dễ dàng và làm nổi bật được những cảnh đời, những thân phận con người bất hạnh, làm nổi bật chủ đề tư tưởng tác phẩm.
3- Dựa vào nội dung truyện, hãy giải thích nhan đề Vợ nhặt. Qua tình huống trong truyện, anh (chị) hiểu gì về tình cảnh và thân phận của người nông dân nghèo trong nạn đói năm 1945?
Gợi ý:
+ Nhan đề Vợ nhặt có nghĩa là “nhặt được vợ” (không phải cưới hỏi theo phong tục).
+ Nhan đề truyện phản ánh thân phận con người bị rẻ rúng như rơm rác, cỏ thể “nhặt” ở bất kì đâu, bất kì lúc nào. Người ta hỏi vợ, cưới vợ, còn ở đây, Tràng “nhặt” được vợ. Đó thực chất là sự khốn cùng của hoàn cảnh.
4 – Cảm nhận của anh (chị) về niềm khát khao tổ ấm gia đình của nhân vật Tràng. Kim Lân đã có những phát hiện tinh tế và sâu sắc như thế nào khi thể hiện niềm khát khao đó của nhân vật (lúc quyết định để người đàn bà theo về, trên đường về xóm ngụ cư, buổi sáng đầu tiên có vợ).
Gợi ý:
a. Niềm khát khao tổ ấm gia đình, cũng là khát vọng hạnh phúc của nhân vật Tràng là khát vọng mãnh liệt dẫu rất thô sơ, chất phác, hồn nhiên.
Khát vọng đó đã vượt qua cả những nỗi lo âu, sự hãi và toan tính trước nạn đói và trước cái chết.
+ Khi quyết định cho người đàn bà theo về, chàng đã liều lĩnh tặc lưỡi: “Chặc, kệ”! Cái tặc lưỡi của Tràng vừa là sự ngộ nghĩnh đơn sơ, vừa mang được một nội dung tư tưởng: đó là thái độ mạnh mẽ và dứt khoát dẫu rất bẳn năng và hài hước của một người lao động khốn khổ trước hai sự lựa chọn: hạnh phúc và nạn đói.
+ Trên đường về xóm ngụ cư, Tràng không cúi xuống lầm lũi như mọi ngày mà “phởn phơ”, “vênh vênh ra điều”. Trong phút chốc, Tràng quên tất cả tăm tối, “chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên” và cảm giác êm dịu của một anh Tràng lần đầu tiên đi cạnh cô vợ mới.
+ Buổi sáng đầu tiên có vợ, Tràng biến đổi hẳn: “Hắn thấy bây giờ hắn mới nên người”. Tràng thấy trách nhiệm và biết gắn bó với tổ ấm của mình.
b. Sự sâu sắc của Kim Lân khi thể hiện niềm khát khao hạnh phúc của người nông dân khốn khổ là ờ chỗ, ông đã cho ta thấy: người dân lao động nghèo, dẫu đứng trước cái chết vẫn luôn nghĩ tới cuộc sống và họ không ngừng tìm kiếm hạnh phúc. Đó là giá trị nhân bản sâu sắc nhất của thiên truyện.
5- Phân tích tâm trạng buồn vui lẫn lộn của bà cụ Tứ, qua đó anh chị hiểu gì về tấm lòng của bà mẹ nông dân này?
Gợi ý:
+ Tâm trạng bà cụ Tứ: mừng, vui, xót, tủi, “vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Đối với người đàn bà thì “lòng bà đầy xót thương”. Nén vào lòng tất cả, .bà dang tay đón người đàn bà xa lạ làm con dâu mình: “ừ, thôi thì các con phải duyên, phải số với nhau, u cũng mừng lòng”.
+ Bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới, bà cụ Tứ đã nhen nhóm cho các con niềm tin, niềm hi vọng: “Tao tính khi nào có tiền mua lấy con gà về nuôi, chả mấy mà có đàn gà cho xem”.
Bà cụ Tứ là hiện thân của nỗi khổ con người. Người mẹ ấy đã nhìn cuộc hôn nhân éo le của con thông qua toàn bộ nỗi đau khổ của cuộc đời bà. Bà lo lắng trước thực tế quá nghiệt ngã. Bà mừng một nỗi mừng sâu xa. Từ ngạc nhiên đến xót thương nhưng trên hết vẫn là tình yêu thương. Cũng chính bà cụ là người nói nhiều nhất về tương lai, một tương lai rất cụ thể thiết thực với những gà, lợn, ruộng, vườn,… một tương lai khiến các con tin tưởng bởi nó không quá xa vời. Kim Lân đã khám phá ra một nét độc đáo khi để cho một bà cụ cập kề miệng lỗ nói nhiều với đôi trẻ về ngày mai.
6- Anh (chị) hãy nhận xét về nghệ thuật viết truyện của Kim Lân (cách kể chuyện, cách dựng cảnh, đổi thoại, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ,…).
Gợi ý:
+ Cách kể chuyện tự nhiên, lôi cuốn, hấp dẫn.
+ Dựng cảnh chân thật, gây ấn tượng: cảnh chết đói, cảnh bữa cơm ngày
đói,…
+ Miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, tự nhiên, chân thật.
+ Ngôn ngữ nhân vật phù hợp với tính cách và thực tế đời sống.
D. LUYỆN TẬP
1. Đoạn văn nào, chi tiết nào của tác phẩm gây xúc động và để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho anh (chị)? Vì sao?
Gợi ý:
HS cần suy nghĩ kĩ và tự trả lời câu này. Khi trả lời lí do yêu thích, cần bám sát và tôn trọng những cảm xúc của riêng mình; cũng có thể vận dụng những hiểu biết về giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm.
2. Phân tích ý nghĩa của đoạn kết thiên truyện.
Gợi ý:
– Đoạn kết là diễn biến tất yếu của mâu thuẫn nội tại của câu chuyện: người dân đang bị lâm vào cảnh chết đói còn nghe tiếng trống thúc thu thuế của chính quyền. Vì vậy, nhân vật như Tràng đã nghĩ đến lá cờ Việt Minh.
– Đoạn kết còn thể hiện tư tưởng nhân đạo mới- nhân đạo cộng sản chủ nghĩa. Tư tưởng này không chỉ có thương xót, cảm thông với nạn nhân của chế độ xã hội, mà còn hướng tới việc để cho nạn nhân đấu tranh tự giải phóng mình. Đó cũng là quan điểm của phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa (Truyện được hoàn thành năm 1955, phân biệt với các tác phẩm hiện thực phê phán), theo đó, các nhân vật, tính cách, hoàn cảnh… đều trong xu thế vận động đi lên, một sự vận động hướng tới tương lai tươi sáng hơn.